Hàng ngày chúng ta vẫn sử dụng những thành
ngữ quen thuộc do ông cha để lại trong khi nói chuyện hay viết lách. Tuy nhiên,
có nhiều thành ngữ mặc dù thường xuyên sử dụng, nhưng câu gốc hay ý nghĩa của
nó lại khác xa so với những gì ta nghĩ. Sau đây là một số những thành ngữ như
vậy.
1_ Nghèo rớt mồng tơi
Nhiều người vẫn nhầm tưởng mồng tơi ở đây là cây mồng tơi mà chúng ta
vẫn thường nấu canh hay dậu mồng tơi trong thơ Nguyễn Bính.
Nhưng thật ra, mồng tơi hoàn toàn khác với
những gì bạn nghĩ. Trước đây người nông dân khi ra đồng thường khoác một chiếc
áo được đan từ lá cọ để che nắng che mưa gọi là áo tơi. Phần trên cùng của áo
tơi được khâu lại để luồn dây đeo qua vai gọi là mồng tơi.
Với những người rất nghèo, họ cứ đeo mãi một
cái áo tơi cho đến khi phần dưới rách nát, rụng tơi tả còn mỗi cái mồng tơi sắp rớt (rụng ra mà vẫn phải sử dụng. Cho nên câu trên muốn
nói đến người rất nghèo, nghèo đến tột cùng.
2_ Đều như vắt tranh
Chúng ta vẫn thường nói "đều như vắt
chanh", nhưng thực ra câu này không có ý nghĩa. Vì vắt quả chanh thì làm
sao mà đều được.
Với những bạn sinh ra trước những năm 7x, các
bạn sẽ được biết đến hình ảnh nhà tranh vách đất. Khi lợp mái tranh, người ta
sẽ đan những lá cọ (hoặc lá dừa vào với nhau thành một vắt gọi là vắt tranh. Từ
những vắt tranh này mới được đưa lên mái nhà để lợp. Với những người thợ giỏi,
họ biết sắp xếp các lá đều nhau nên vắt tranh rất đều và đẹp.
Đều như vắt tranh ý nói làm một cái gì đấy mà
sản phẩm rất đồng đều.
3_ Lang bạt kỳ hồ
Khi nghe câu trên nhiều người nghĩ ngay đến
hình ảnh một người sống phiêu bạt giang hồ, nay đây mai đó. Nhưng thực ra, đây
là một câu thành ngữ Hán-Việt. Lang là con Sói, bạt là giẫm đạp, kỳ là đại từ
chỉ chính con sói, hồ là vạt yếm dưới cổ.
Vậy Lang bạt kỳ hồ có nghĩa là con Sói dẫm
vào chính cái yếm của nó. Ý nói người nào đó đang rất lúng túng, quẩn quanh
không tìm ra lối thoát.
4_ Con cà con kê
Thoạt nghe nhiều người nghĩ ngay là con gà,
con kê, tức muốn ám chỉ một người nói vòng vo vì con gà với con kê thực ra là
một.
Nhưng nghĩa gốc của nó lại hoàn toàn khác.
Ngày xưa làm nông nghiệp, người dân sau khi gieo cây cà, cây kê, đến thời điểm
nhổ lên để trồng ra luống người ta cũng buộc lại thành từng bó như bó mạ mà các
bạn thấy trên hình, được gọi là con cà, con kê. Việc trồng cà, trồng kê rất mất
nhiều thời gian và tỉ mẩn vì phải tách từng cây trong bó ra rồi mới trồng.
Câu con cà con kê ý nói rất dài dòng, không
biết bao giờ mới dứt như công việc trồng cà, trồng kê.
5_ Chạy như cờ lông công
Thoạt nghe cứ tưởng cờ lông công chỉ là một
từ ghép nghe cho nó vần. Nhưng thực ra cờ lông công là một loại cờ hiệu được sử
dụng từ thời xa xưa.
Ngày nay, việc trao đổi thông tin đã có hôp
thư điện tử, bạn chỉ cần soạn thảo và một cái nháy chuột là xong. Tuy nhiên, từ
thời xa xưa, khi việc di chuyển còn khó khăn thì việc trao đổi thông tin mất
rất nhiều thời gian. Khi cần chuyển một thông tin hỏa tốc, người lính trạm dùng
tín hiệu là một lá cờ có gắn thêm lông đuôi con công, gọi là cờ lông công. Vì
là thông tin hỏa tốc nên người lính trạm khi gắn cờ này thường chạy rất nhanh,
chạy qua chạy lại rất nhiều chặng đường.
Vì vậy, để nói đến những người suốt ngày chạy
khắp nơi ngoài đường, hoặc chạy vội vã người ta thường sử dụng thành ngữ chạy
như cờ lông công.
6_ Đanh đá cá cày
Câu này thường để chỉ những người phụ nữ có
tính ương ngạnh, không được hiền lành, dịu dàng. Tuy nhiên, do ngôn ngữ vùng
miền nên nhiều người đọc thành cá cầy khiến nhiều người tưởng đanh đá như con
cá Cầy.
Thực ra, cá cày là một thứ làm bằng gỗ hoặc
tre, có hình dáng gần giống với con cá được sử dụng trong chiếc cày thô sơ ngày
xưa để điều khiển nâng hoặc hạ bắp cày để có đường cày nông hay sâu theo ý
mình. Trong cấu tạo của cả chiếc cày, cá cày có hình dáng rất nhỏ nhưng nó có
thể điều khiển được cả chiếc cày theo ý mình.
7_ Sư tử Hà Đông
Nhiều người vẫn dùng hình ảnh trên để nói về
những bà vợ của mình. Tuy nhiên, không ít người lầm tưởng Hà Đông ở đây là quận
Hà Đông, Hà Nội (trước đây thuộc tỉnh Hà Tây. Thực ra, Sư tử Hà Đông lại chẳng
liên quan gì đến địa danh Hà Đông của chúng ta mà nó bắt nguồn từ một điển tích
bên tận Trung cộng.
Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống,
quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quý Thường rất
sợ vợ nhưng rất có lòng tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm
bực, la hét om sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng.
Tính của Trần cũng hào hoa, bằng hữu nhiều,
nên ở nhà thường có yến tiệc. Để tăng phần hứng thú, long trọng của buổi tiệc,
Trần chiều khách, mời kỹ nữ xướng ca. Liễu Thị trong phòng mượn điều này, điều
nọ, quát tháo om sòm. Trần có lúc hốt hoảng, cầm gậy nơi tay bỏ rơi mất gậy.
Bạn thân của Trần là Tô Đông Pha, nhân đó làm một bài thơ đùa cợt trong đó có hai
câu như sau:
Từ đó, sư tử Hà Đông được dùng để chỉ những
bà vợ có tính ghen tuông và mỗi khi xảy ra việc gì lập tức nổi cơn tam bành với
chồng.
8_ Kẻ tám lạng người nửa cân
Mọi người vẫn thường dùng câu trên để nói về
cuộc đấu giữa hai đội quân hay hai người cân sức, cân tài. Nhưng tại sao lại là
tám lạng với nửa cân mà không phải năm lạng và nửa cân?
Thực ra, cân ở đây là cân ta từ ngày xưa: mỗi
cân tương đương với 16 lạng, khoảng 0,6kg bây giờ. Vì vậy, nửa cân khi đó bằng
đúng tám lạng.
9_ Công như công cốc
Nghe có vẻ như hai chữ công cốc người ta chỉ
nói cho có vần, có điệu. Nhưng thực chất, chữ cốc ở trong câu thành ngữ này là
một loài chim. Con chim Cốc cũng có màu đen và trông giống với con Quạ nhưng
kích thước lớn hơn khá nhiều. Chúng là loài chim săn cá điệu nghệ nên nhiều ngư
dân thuần hóa chim Cốc để đánh bắt cá. Thường các ngư dân sẽ đeo vào cổ con
chim một chiếc vòng để sau khi chim bắt được cá to thì sẽ không thể nuốt được.
Vì vậy mà người ta thường dùng thành ngữ công
như công cốc hay đơn giản là công cốc để ám chỉ những việc làm dù rất cố gắng
mà không mang lại thành quả
Lê Anh Tuấn
suu tam
MNLam
Cali
No comments:
Post a Comment